Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kigali”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 58: Dòng 58:


Kể từ sau chiến tranh và nạn diệt chủng, thành phố đã trải qua sự gia tăng dân số nhanh chóng do di cư từ các khu vực khác, cũng như tỷ lệ sinh cao. Các tòa nhà bị tàn phá nặng nề trong cuộc chiến đã bị phá hủy, phần lớn thành phố đã được xây dựng lại, và các tòa nhà văn phòng và cơ sở hạ tầng hiện đại tồn tại trên toàn thành phố. Một kế hoạch tổng thể, được thành phố và chính phủ thông qua vào năm 2013 và được hỗ trợ bởi tài chính và lao động quốc tế, tìm cách thiết lập Kigali thành một thành phố hiện đại phi tập trung vào năm 2040. Tuy nhiên, sự phát triển đã đi kèm với việc đuổi người dân ở các khu nhà ở không chính thức, và các nhóm như [[Tổ chức Theo dõi Nhân quyền]] đã cáo buộc việc chính phủ đưa những người nghèo và trẻ em vào các trung tâm giam giữ.<ref>{{Cite news|url=/proxy/https://www.theguardian.com/world/2014/apr/04/kigali-plan-rwandan-city-afford-new-homes-offices|title=Kigali's future or costly fantasy? Plan to reshape Rwandan city divides opinion|last1=Topping|first1=Alexandra|date=4 April 2014|newspaper=The Guardian|accessdate=10 May 2020}}</ref><ref>{{cite news|url=/proxy/https://www.hrw.org/report/2015/09/24/why-not-call-place-prison/unlawful-detention-and-ill-treatment-rwandas-gikondo|title="Why Not Call This Place a Prison?" – Unlawful Detention and Ill-Treatment in Rwanda’s Gikondo Transit Center|date=24 September 2015|work=[[Human Rights Watch]]}}</ref>
Kể từ sau chiến tranh và nạn diệt chủng, thành phố đã trải qua sự gia tăng dân số nhanh chóng do di cư từ các khu vực khác, cũng như tỷ lệ sinh cao. Các tòa nhà bị tàn phá nặng nề trong cuộc chiến đã bị phá hủy, phần lớn thành phố đã được xây dựng lại, và các tòa nhà văn phòng và cơ sở hạ tầng hiện đại tồn tại trên toàn thành phố. Một kế hoạch tổng thể, được thành phố và chính phủ thông qua vào năm 2013 và được hỗ trợ bởi tài chính và lao động quốc tế, tìm cách thiết lập Kigali thành một thành phố hiện đại phi tập trung vào năm 2040. Tuy nhiên, sự phát triển đã đi kèm với việc đuổi người dân ở các khu nhà ở không chính thức, và các nhóm như [[Tổ chức Theo dõi Nhân quyền]] đã cáo buộc việc chính phủ đưa những người nghèo và trẻ em vào các trung tâm giam giữ.<ref>{{Cite news|url=/proxy/https://www.theguardian.com/world/2014/apr/04/kigali-plan-rwandan-city-afford-new-homes-offices|title=Kigali's future or costly fantasy? Plan to reshape Rwandan city divides opinion|last1=Topping|first1=Alexandra|date=4 April 2014|newspaper=The Guardian|accessdate=10 May 2020}}</ref><ref>{{cite news|url=/proxy/https://www.hrw.org/report/2015/09/24/why-not-call-place-prison/unlawful-detention-and-ill-treatment-rwandas-gikondo|title="Why Not Call This Place a Prison?" – Unlawful Detention and Ill-Treatment in Rwanda’s Gikondo Transit Center|date=24 September 2015|work=[[Human Rights Watch]]}}</ref>

== Địa lý ==
[[File:Mount_Kigali.jpg|liên_kết=/proxy/https://vi.wikipedia.org/wiki/File:Mount_Kigali.jpg%7Cthế=%7Cnhỏ%7CMột?__proxy_cookies_to=https%3A%2F%2Fen.wikipedia.org%2Fwiki%2FFile%3AMount_Kigali.jpg%7Cth%E1%BA%BF%3D%7Cnh%E1%BB%8F%7CM%E1%BB%99t phần của thành phố trên sườn [[núi Kigali]].]]
Kigali nằm ở trung tâm của Rwanda, ở {{Coord|1|57|S|30|4|E|type:city_region:BD|display=inline}}.<ref>{{cite book|url=/proxy/https://books.google.co.uk/books?id=Zdyn9od15oQC&pg=PA479|title=The World Factbook 2007|author=[[Central Intelligence Agency]]|publisher=Government Printing Office|year=2007|isbn=978-0-16-078580-1|p=479}}</ref> Giống như phần còn lại của Rwanda, nó sử dụng [[Giờ Trung Phi]] và sớm hơn hai giờ so với [[Giờ Phối hợp Quốc tế]] (UTC+02:00) trong suốt cả năm.<ref>{{cite web|url=/proxy/https://time.is/Rwanda|title=Time in Rwanda now: Time zone|work=Time.is|accessdate=12 May 2020}}</ref> Thành phố có ranh giới với các tỉnh [[Tỉnh Bắc, Rwanda|Bắc]], [[Tỉnh Đông, Rwanda|Đông]] và [[Tỉnh Nam, Rwanda|Nam]].<ref>{{cite news|url=/proxy/http://news.bbc.co.uk/1/hi/world/africa/4577790.stm|title=Rwanda redrawn to reflect compass|date=3 January 2006|work=[[BBC News]]|accessdate=15 May 2018}}</ref> Nó được chia thành ba khu hành chính, [[Nyarugenge]] ở phía tây nam, [[Kicukiro]] ở phía đông nam và [[Gasabo]], chiếm nửa phía bắc của diện tích thành phố.{{sfn|REMA|2013|p=11}} Kigali nằm trong một khu vực của những ngọn đồi thoai thoải, với một loạt các thung lũng và rặng núi nối với nhau bởi những con dốc cao. Nó nằm giữa hai ngọn [[núi Kigali]] và [[núi Jali]], cả hai đều có độ cao hơn 1.800 m (5,906 ft) so với mực nước biển, trong khi các khu vực thấp nhất của thành phố có độ cao 1.300 m (4.265 ft). Về mặt địa chất, Kigali nằm trong một khu vực đá granit và biến chất, với đất đá ong trên đồi và đất phù sa trong thung lũng.{{sfn|REMA|2013|p=5}}

=== Khí hậu ===
Giống như phần còn lại của Rwanda, Kigali có [[khí hậu nhiệt đới]], nhưng với nhiệt độ mát hơn so với các nước xích đạo khác vì độ cao của nó.<ref>{{cite web|url=/proxy/https://2009-2017.state.gov/outofdate/bgn/rwanda/40249.htm|title=Background Note: Rwanda|year=2004|work=[[United States Department of State]]|accessdate=12 November 2015}}</ref> Theo [[phân loại khí hậu Köppen]], Kigali nằm trong vùng [[khí hậu xavan]] (''Aw''), nằm giữa vùng khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới.{{Weather box|location=Kigali, Rwanda|year precipitation mm=|Feb precipitation mm=91.0|Mar precipitation mm=114.2|Apr precipitation mm=154.2|May precipitation mm=88.1|Jun precipitation mm=18.6|Jul precipitation mm=11.4|Aug precipitation mm=31.1|Sep precipitation mm=69.6|Oct precipitation mm=105.7|Nov precipitation mm=112.7|Dec precipitation mm=77.4|unit precipitation days=0.1 mm|precipitation colour=green|Jan precipitation days=11|Feb precipitation days=11|Mar precipitation days=15|Apr precipitation days=18|May precipitation days=13|Jun precipitation days=2|Jul precipitation days=1|Aug precipitation days=4|Sep precipitation days=10|Oct precipitation days=17|Nov precipitation days=17|Dec precipitation days=14|Jan precipitation mm=76.9|year low C=|single line=Y|Nov high C=26.1|metric first=Y|Jan high C=26.9|Feb high C=27.4|Mar high C=26.9|Apr high C=26.2|May high C=25.9|Jun high C=26.4|Jul high C=27.1|Aug high C=28.0|Sep high C=28.2|Oct high C=27.2|Dec high C=26.4|Dec low C=15.6|year high C=|Jan low C=15.6|Feb low C=15.8|Mar low C=15.7|Apr low C=16.1|May low C=16.2|Jun low C=15.3|Jul low C=15.0|Aug low C=16.0|Sep low C=16.0|Oct low C=15.9|Nov low C=15.5|source 1=[[World Meteorological Organization]].<ref name="WorldMeteorologicalOrganization"/>}}


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==

Phiên bản lúc 10:10, ngày 17 tháng 6 năm 2020

Kigali
Kigali, Rwanda
Kigali, Rwanda
Vị trí của Kigali tại Rwanda.
Vị trí của Kigali tại Rwanda.
Kigali trên bản đồ Rwanda
Kigali
Kigali
Quốc giaRwanda
TỉnhKigali
Thành lập1907
Chính quyền
 • Thị trưởngPascal Nyamulinda (FPR)
Diện tích
 • Tổng cộng730 km2 (280 mi2)
Độ cao1.567 m (5,141 ft)
Dân số (thống kê 2015)
 • Tổng cộng745.261
 • Mật độ1,000/km2 (2,600/mi2)
Múi giờCAT (UTC+2)
 • Mùa hè (DST)none (UTC+2)
Mã ISO 3166RW-01 sửa dữ liệu
Thành phố kết nghĩaKampala, San Bernardino, Thành phố Oklahoma, Durban, Pretoria, Lusaka, Mainz, Roma, Waremme, Thành Đô, Thâm Quyến, Tế Nam sửa dữ liệu
Huyện
1. Gasabo
2. Kicukiro
3. Nyarugenge
Trang webwww.kigalicity.gov.rw

Kigali (tiếng Rwanda: [ciɡɑlí]) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Rwanda. Nó tọa lạc gần điểm trung tâm địa lý của đất nước. Thành phố đã là trung tâm kinh tế, văn hóa, và giao thương của Rwanda từ khi nó trở thành thủ đô năm 1962 khi Rwanda giành độc lập. Nơi ở và làm việc của tổng thống Rwanda, cũng như các tòa nhà chính phủ, tọa lạc trong thành phố.

Thành phố Kigali là một trong năm tỉnh của Rwanda, với các ranh giới được thiết lập vào năm 2006. Nó được chia thành ba huyện, Gas Gasabo, KicukiroNyarugenge, trong lịch sử có quyền kiểm soát các khu vực quan trọng của chính quyền địa phương. Các cải cách vào tháng 1 năm 2020 đã chuyển phần lớn quyền lực của các quận cho hội đồng toàn thành phố. Thành phố cũng là nơi cư trú chính và văn phòng của Tổng thống Rwanda và hầu hết các bộ của chính phủ. Đóng góp lớn nhất cho tổng sản phẩm quốc nội của Kigali là lĩnh vực dịch vụ, nhưng một tỷ lệ đáng kể dân số làm việc trong nông nghiệp bao gồm nông nghiệp tự cung tự cấp quy mô nhỏ. Thu hút du khách quốc tế là ưu tiên của chính quyền thành phố, bao gồm du lịch giải trí, hội nghị và triển lãm.

Lịch sử

Những cư dân đầu tiên của Rwanda ngày nay là người Twa, một nhóm người săn bắn hái lượm, định cư tại đây từ 8000 đến 3000 trước Công nguyên và vẫn ở lại đất nước ngày nay.[1][2] Theo lịch sử truyền miệng, Vương quốc Rwanda được thành lập vào thế kỷ 14 trên bờ hồ Muhazi, cách Kigali ngày nay khoảng 40 km (25 dặm) về phía đông.[3][4][5][6] Vương quốc ban đầu bao gồm Kigali nhưng đó là một nhà nước nhỏ trong lịch sử với các nước láng giềng lớn hơn và hùng mạnh hơn, BugeseraGisaka.[7][8] Một thành viên của triều đại Gisaka đã giết vua Ruganzu Bwimba của Rwanda vào thế kỷ 16, nhưng con trai của Ruganzu, Cyirima Rugwe đã chiến đấu trở lại với sự giúp đỡ từ Bugesera và mở rộng lãnh thổ của Rwanda.[9] Vào cuối thế kỷ 16 hoặc đầu thế kỷ 17, vương quốc Rwanda đã bị xâm chiếm từ phía bắc bởi người Banyoro tại Uganda ngày nay.[9] Nhà vua buộc phải chạy trốn về phía tây, để lại Kigali và miền đông Rwanda trong tay Bugesera và Gisaka. Sự hình thành vào thế kỷ 17 của một triều đại Rwanda mới bởi mwami (vua), Ruganzu Ndori, tiếp theo là các cuộc xâm lược về phía đông và cuộc chinh phạt Bugesera, đánh dấu sự khởi đầu của sự thống trị của vương quốc Rwanda trong khu vực.[10] Thủ đô của vương quốc là tại Nyanza, ở phía nam của đất nước.[11]

Thành phố Kigali được thành lập vào năm 1907 bởi nhà thám hiểm người Đức Richard Kandt. Rwanda và nước láng giềng Burundi đã được Hội nghị Berlin năm 1884 giao cho Đức, tạo thành một phần của Đông Phi thuộc Đức, và Đức đã thiết lập sự hiện diện của họ ở nước này vào năm 1897 với việc thành lập liên minh với nhà vua, Yuhi V Musinga. Kandt đến năm 1899, để khám phá Hồ Kivu và tìm kiếm nguồn gốc của sông Nile.[12] Khi Đức quyết định vào năm 1907 để tách chính quyền Rwanda khỏi Burundi, Kandt được chỉ định là cư dân đầu tiên của đất nước.[13] Ông chọn làm trụ sở chính ở Kigali do vị trí trung tâm của nó ở trong nước, và cũng vì địa điểm trên đồi Nyarugenge có tầm nhìn tốt và an ninh. Ngôi nhà của Kandt, nằm gần khu thương mại trung tâm (CBD), là ngôi nhà theo phong cách châu Âu đầu tiên trong thành phố,[14] và ngày nay vẫn được sử dụng làm Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Kandt House.[15] Kandt đã bắt đầu cho phép sự xâm nhập của các thương nhân nước ngoài vào năm 1908, cho phép hoạt động thương mại bắt đầu ở Rwanda. Các doanh nghiệp đầu tiên của Kigali được thành lập bởi các thương nhân Hy Lạp và Ấn Độ, với sự hỗ trợ từ người Bagandangười Swahili.[16] Các mặt hàng được buôn bán bao gồm vải và hạt.[16] Hoạt động thương mại bị hạn chế và chỉ có khoảng 30 công ty trong thành phố vào năm 1914. Kandt cũng mở các trường do chính phủ điều hành ở Kigali, nơi bắt đầu giáo dục những học sinh người Tutsi.[17]

Philippe Molitor của Lữ đoàn phương Bắc của Bỉ tiến vào Kigali năm 1916.

Quân đội Bỉ nắm quyền kiểm soát Rwanda và Burundi trong Thế chiến I, với Kigali bị Lữ đoàn phương Bắc xâm chiếm bởi Đại tá Philippe Molitor vào ngày 6 tháng 5 năm 1916. Đầu năm 1917, Bỉ đã cố gắng khẳng định sự cai trị trực tiếp đối với Rwanda, bắt giữ vua Musinga. Trong thời kỳ này, Kigali là một trong hai thủ đô của tỉnh, cùng với Gisenyi. Tình trạng thiếu lao động nông nghiệp do tuyển dụng người dân địa phương để hỗ trợ quân đội châu Âu trong chiến tranh, cướp bóc lương thực của binh lính và những cơn mưa xối xả phá hủy mùa màng, dẫn đến nạn đói nghiêm trọng khi bắt đầu chính quyền Bỉ. Nạn đói, kết hợp với khó khăn trong việc cai trị xã hội Rwanda phức tạp, đã thúc đẩy người Bỉ thiết lập lại chế độ gián tiếp theo kiểu Đức vào cuối năm 1917. Musinga đã khôi phục lại ngai vàng của mình tại Nyanza, và Kigali vẫn là trung tâm của chính quyền thuộc địa. Sự sắp xếp này vẫn tồn tại cho đến giữa những năm 1920, nhưng từ năm 1924, người Bỉ lại bắt đầu một lần nữa để bên lề chế độ quân chủ, lần này là vĩnh viễn. Bỉ nắm quyền kiểm soát giải quyết tranh chấp, bổ nhiệm các quan chức và thu thuế.[18][19] Kigali vẫn còn tương đối nhỏ trong suốt phần còn lại của thời kỳ thuộc địa, vì phần lớn chính quyền nằm tại thủ đô Bujumbura của Burundi. Dân số của Bujumbura đã vượt quá con số 50.000 trong những năm 1950 và là thành phố duy nhất theo phong cách châu Âu,[20] trong khi dân số của Kigali vẫn ở mức khoảng 6.000 cho đến khi giành được độc lập vào năm 1962.[14]

Kigali trở thành thủ đô của nước Rwanda độc lập vào năm 1962.[21][22] Chính quyền mới đã chọn Kigali vì vị trí của nó ở trung tâm đất nước. Thành phố phát triển ổn định trong những thập kỷ sau; vào đầu những năm 1970, dân số là 25.000 người chỉ với năm con đường trải nhựa và đến năm 1991 là khoảng 250.000.[23] Vào ngày 6 tháng 7 năm 1973, có một cuộc đảo chính quân sự không đổ máu, trong đó bộ trưởng quốc phòng Juvénal Habyarimana đã lật đổ tổng thống cầm quyền Grégoire Kayibanda.[24] Các doanh nghiệp đóng cửa trong vài ngày và quân đội tuần tra khắp thành phố,[25] nhưng sự gián đoạn chỉ diễn ra trong thời gian ngắn và quân đội đã rời khỏi đường phố vào ngày 11 tháng 7.[26]

Thành phố không bị ảnh hưởng trực tiếp trong ba năm đầu của cuộc nội chiến Rwanda năm 1990, mặc dù Mặt trận Ái quốc Rwanda (RPF) đã tiến gần đến việc tấn công thành phố vào tháng 2 năm 1993. Vào tháng 12 cùng năm, sau khi ký kết trong Hiệp định Arusha, một lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đã được thành lập trong thành phố và RPF đã được cấp quyền sử dụng một tòa nhà trong thành phố cho các nhà ngoại giao và binh lính của họ. Vào tháng 4 năm 1994, Tổng thống Habyarimana đã bị ám sát khi máy bay của ông bị bắn hạ gần Sân bay quốc tế Kigali. Tổng thống Burundi Cyprien Ntaryamira cũng bị giết trong vụ tấn công.[27] Đây là chất xúc tác cho nạn diệt chủng Rwanda, trong đó 500.000–1.000.000 người Tutsi và người Hutu ôn hòa về mặt chính trị đã bị giết trong các cuộc tấn công được lên kế hoạch kỹ lưỡng theo lệnh của chính phủ lâm thời. Các chính trị gia đối lập ở Kigali đã bị giết vào ngày đầu tiên của cuộc diệt chủng,[28] và thành phố sau đó trở thành bối cảnh chiến đấu ác liệt giữa quân đội và RPF, kể cả tại căn cứ sau này. RPF bắt đầu tấn công từ phía bắc, và dần dần nắm quyền kiểm soát phần lớn đất nước trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 6.[29] Sau khi bao vây Kigali và cắt đứt các tuyến đường tiếp tế,[30] họ bắt đầu chiến đấu cho chính thành phố vào giữa tháng Sáu. Các lực lượng chính phủ có nhân lực và vũ khí vượt trội nhưng RPF đã chiến đấu một cách khéo léo và có thể khai thác thực tế là các lực lượng chính phủ đang tập trung vào cuộc diệt chủng thay vì chiến đấu cho Kigali.[31] RPF nắm quyền kiểm soát Kigali vào ngày 4 tháng 7,[32] một ngày hiện được kỷ niệm là ngày lễ quốc khánh.[33]

Kể từ sau chiến tranh và nạn diệt chủng, thành phố đã trải qua sự gia tăng dân số nhanh chóng do di cư từ các khu vực khác, cũng như tỷ lệ sinh cao. Các tòa nhà bị tàn phá nặng nề trong cuộc chiến đã bị phá hủy, phần lớn thành phố đã được xây dựng lại, và các tòa nhà văn phòng và cơ sở hạ tầng hiện đại tồn tại trên toàn thành phố. Một kế hoạch tổng thể, được thành phố và chính phủ thông qua vào năm 2013 và được hỗ trợ bởi tài chính và lao động quốc tế, tìm cách thiết lập Kigali thành một thành phố hiện đại phi tập trung vào năm 2040. Tuy nhiên, sự phát triển đã đi kèm với việc đuổi người dân ở các khu nhà ở không chính thức, và các nhóm như Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã cáo buộc việc chính phủ đưa những người nghèo và trẻ em vào các trung tâm giam giữ.[34][35]

Địa lý

Một phần của thành phố trên sườn núi Kigali.

Kigali nằm ở trung tâm của Rwanda, ở 1°57′N 30°4′Đ / 1,95°N 30,067°Đ / -1.950; 30.067.[36] Giống như phần còn lại của Rwanda, nó sử dụng Giờ Trung Phi và sớm hơn hai giờ so với Giờ Phối hợp Quốc tế (UTC+02:00) trong suốt cả năm.[37] Thành phố có ranh giới với các tỉnh Bắc, ĐôngNam.[38] Nó được chia thành ba khu hành chính, Nyarugenge ở phía tây nam, Kicukiro ở phía đông nam và Gasabo, chiếm nửa phía bắc của diện tích thành phố.[39] Kigali nằm trong một khu vực của những ngọn đồi thoai thoải, với một loạt các thung lũng và rặng núi nối với nhau bởi những con dốc cao. Nó nằm giữa hai ngọn núi Kigalinúi Jali, cả hai đều có độ cao hơn 1.800 m (5,906 ft) so với mực nước biển, trong khi các khu vực thấp nhất của thành phố có độ cao 1.300 m (4.265 ft). Về mặt địa chất, Kigali nằm trong một khu vực đá granit và biến chất, với đất đá ong trên đồi và đất phù sa trong thung lũng.[40]

Khí hậu

Giống như phần còn lại của Rwanda, Kigali có khí hậu nhiệt đới, nhưng với nhiệt độ mát hơn so với các nước xích đạo khác vì độ cao của nó.[41] Theo phân loại khí hậu Köppen, Kigali nằm trong vùng khí hậu xavan (Aw), nằm giữa vùng khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới.

Dữ liệu khí hậu của Kigali, Rwanda
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình ngày tối đa °C (°F) 26.9
(80.4)
27.4
(81.3)
26.9
(80.4)
26.2
(79.2)
25.9
(78.6)
26.4
(79.5)
27.1
(80.8)
28.0
(82.4)
28.2
(82.8)
27.2
(81.0)
26.1
(79.0)
26.4
(79.5)
26.9
(80.4)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) 15.6
(60.1)
15.8
(60.4)
15.7
(60.3)
16.1
(61.0)
16.2
(61.2)
15.3
(59.5)
15.0
(59.0)
16.0
(60.8)
16.0
(60.8)
15.9
(60.6)
15.5
(59.9)
15.6
(60.1)
15.7
(60.3)
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 76.9
(3.03)
91.0
(3.58)
114.2
(4.50)
154.2
(6.07)
88.1
(3.47)
18.6
(0.73)
11.4
(0.45)
31.1
(1.22)
69.6
(2.74)
105.7
(4.16)
112.7
(4.44)
77.4
(3.05)
950.9
(37.44)
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 0.1 mm) 11 11 15 18 13 2 1 4 10 17 17 14 133
Nguồn: World Meteorological Organization.[42]

Tham khảo

  1. ^ Chrétien 2003, tr. 44.
  2. ^ Mamdani 2002, tr. 61.
  3. ^ Dorsey 1994, tr. 37.
  4. ^ Munyakazi, Augustine; Ntagaramba, Johnson Funga (2005). Atlas of Rwanda (bằng tiếng Pháp). Macmillan Education. tr. 18. ISBN 978-0-333-95451-5.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  5. ^ Prunier 1999, tr. 18.
  6. ^ “Muhazi”. Rwanda Development Board. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2018 – qua RwandaTourism.com.
  7. ^ Dorsey 1994, tr. 6.
  8. ^ Chrétien 2003, tr. 158.
  9. ^ a b Streissguth, Thomas (2007). Rwanda in Pictures . Twenty-First Century Books. tr. 21–22. ISBN 978-0-8225-8570-1.
  10. ^ Dorsey 1994, tr. 39.
  11. ^ Twagilimana 2015, tr. 175.
  12. ^ Tabaro, Jean de la Croix (6 tháng 7 năm 2014). “The story of Kandt and how Kigali came to be the capital city”. The New Times. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2020.
  13. ^ Louis 1963, tr. 146.
  14. ^ a b Ntagungura, Godfrey (20 tháng 5 năm 2011). “The history of City of Kigali”. The New Times.
  15. ^ “Institute of National Museums of Rwanda”. National Museums of Rwanda. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2020.
  16. ^ a b Linden & Linden 1977, tr. 103.
  17. ^ Linden & Linden 1977, tr. 110.
  18. ^ Stapleton, Timothy J. (2017). A History of Genocide in Africa. ABC-CLIO. tr. 34. ISBN 978-1-4408-3052-5.
  19. ^ Des Forges 2011, tr. 210.
  20. ^ “Ruanda Urundi / Preface by Jean-Paul Horroy, governor of Ruanda-Urundi”. Infor Congo (Belgian Congo and Ruanda-Urundi Information and Public Relations Office). 1958.
  21. ^ Muramila, Gasheegu. “100 mayors for City centenary celebrations”. The New Times. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2018.
  22. ^ Roman Adrian Cybriwsky, Capital Cities around the World: An Encyclopedia of Geography, History, and Culture, ABC-CLIO, USA, 2013, p. 141
  23. ^ REMA 2013, tr. 21.
  24. ^ Mohr, Charles (7 tháng 7 năm 1973). “Rwanda Coup Traced to Area Rivalry and Poverty”. The New York Times. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2018.
  25. ^ “Military Coup in Rwanda Follows Tribal Dissension”. The New York Times. Associated Press. 6 tháng 7 năm 1973. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2018.
  26. ^ “Cable: Rwanda Coup”. United States Department of State. 11 tháng 7 năm 1973. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2018 – qua Wikileaks.
  27. ^ “Hutus 'killed Rwanda President Juvenal Habyarimana'. BBC News. 12 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  28. ^ “Rwanda: How the genocide happened”. BBC News. 7 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2020.
  29. ^ Dallaire 2005, tr. 288.
  30. ^ Dallaire 2005, tr. 299.
  31. ^ Dallaire 2005, tr. 421.
  32. ^ Dallaire 2005, tr. 459.
  33. ^ “Official holidays”. gov.rw. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2013.
  34. ^ Topping, Alexandra (4 tháng 4 năm 2014). “Kigali's future or costly fantasy? Plan to reshape Rwandan city divides opinion”. The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2020.
  35. ^ "Why Not Call This Place a Prison?" – Unlawful Detention and Ill-Treatment in Rwanda's Gikondo Transit Center”. Human Rights Watch. 24 tháng 9 năm 2015.
  36. ^ Central Intelligence Agency (2007). The World Factbook 2007. Government Printing Office. tr. 479. ISBN 978-0-16-078580-1.
  37. ^ “Time in Rwanda now: Time zone”. Time.is. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2020.
  38. ^ “Rwanda redrawn to reflect compass”. BBC News. 3 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2018.
  39. ^ REMA 2013, tr. 11.
  40. ^ REMA 2013, tr. 5.
  41. ^ “Background Note: Rwanda”. United States Department of State. 2004. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  42. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên WorldMeteorologicalOrganization

Đọc thêm

Liên kết ngoài