Bước tới nội dung

Thiếc

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiếc, 50Sn
Tính chất chung
Tên, ký hiệuThiếc, Sn
Phiên âm/ˈtɪn/
Hình dạngCó hai màu tùy cấu trúc phân tử là bạc (dạng beta) hay xám (dạng alpha)
Thiếc trong bảng tuần hoàn
Hydro (diatomic nonmetal)
Heli (noble gas)
Lithi (alkali metal)
Beryli (alkaline earth metal)
Bor (metalloid)
Carbon (polyatomic nonmetal)
Nitơ (diatomic nonmetal)
Oxy (diatomic nonmetal)
Fluor (diatomic nonmetal)
Neon (noble gas)
Natri (alkali metal)
Magnesi (alkaline earth metal)
Nhôm (post-transition metal)
Silic (metalloid)
Phosphor (polyatomic nonmetal)
Lưu huỳnh (polyatomic nonmetal)
Chlor (diatomic nonmetal)
Argon (noble gas)
Kali (alkali metal)
Calci (alkaline earth metal)
Scandi (transition metal)
Titani (transition metal)
Vanadi (transition metal)
Chrom (transition metal)
Mangan (transition metal)
Sắt (transition metal)
Cobalt (transition metal)
Nickel (transition metal)
Đồng (transition metal)
Kẽm (transition metal)
Gali (post-transition metal)
Germani (metalloid)
Arsenic (metalloid)
Seleni (polyatomic nonmetal)
Brom (diatomic nonmetal)
Krypton (noble gas)
Rubidi (alkali metal)
Stronti (alkaline earth metal)
Yttri (transition metal)
Zirconi (transition metal)
Niobi (transition metal)
Molypden (transition metal)
Techneti (transition metal)
Rutheni (transition metal)
Rhodi (transition metal)
Paladi (transition metal)
Bạc (transition metal)
Cadmi (transition metal)
Indi (post-transition metal)
Thiếc (post-transition metal)
Antimon (metalloid)
Teluri (metalloid)
Iod (diatomic nonmetal)
Xenon (noble gas)
Caesi (alkali metal)
Bari (alkaline earth metal)
Lantan (lanthanide)
Ceri (lanthanide)
Praseodymi (lanthanide)
Neodymi (lanthanide)
Promethi (lanthanide)
Samari (lanthanide)
Europi (lanthanide)
Gadolini (lanthanide)
Terbi (lanthanide)
Dysprosi (lanthanide)
Holmi (lanthanide)
Erbi (lanthanide)
Thulium (lanthanide)
Ytterbi (lanthanide)
Luteti (lanthanide)
Hafni (transition metal)
Tantal (transition metal)
Wolfram (transition metal)
Rheni (transition metal)
Osmi (transition metal)
Iridi (transition metal)
Platin (transition metal)
Vàng (transition metal)
Thuỷ ngân (transition metal)
Thali (post-transition metal)
Chì (post-transition metal)
Bismuth (post-transition metal)
Poloni (metalloid)
Astatin (diatomic nonmetal)
Radon (noble gas)
Franci (alkali metal)
Radi (alkaline earth metal)
Actini (actinide)
Thori (actinide)
Protactini (actinide)
Urani (actinide)
Neptuni (actinide)
Plutoni (actinide)
Americi (actinide)
Curium (actinide)
Berkeli (actinide)
Californi (actinide)
Einsteini (actinide)
Fermi (actinide)
Mendelevi (actinide)
Nobeli (actinide)
Lawrenci (actinide)
Rutherfordi (transition metal)
Dubni (transition metal)
Seaborgi (transition metal)
Bohri (transition metal)
Hassi (transition metal)
Meitneri (unknown chemical properties)
Darmstadti (unknown chemical properties)
Roentgeni (unknown chemical properties)
Copernici (transition metal)
Nihoni (unknown chemical properties)
Flerovi (post-transition metal)
Moscovi (unknown chemical properties)
Livermori (unknown chemical properties)
Tennessine (unknown chemical properties)
Oganesson (unknown chemical properties)
Ge

Sn

Pb
IndiThiếcAntimon
Số nguyên tử (Z)50
Khối lượng nguyên tử chuẩn (Ar)118,710
Phân loại  kim loại
Nhóm, phân lớp14p
Chu kỳChu kỳ 5
Cấu hình electron[Kr] 4d10 5s2 5p2
mỗi lớp
2, 8, 18, 18, 4
Tính chất vật lý
Màu sắcBạc hoặc xám
Trạng thái vật chấtChất rắn
Nhiệt độ nóng chảy505,08 K ​(231,93 °C, ​449,47 °F)
Nhiệt độ sôi2875 K ​(2602 °C, ​4716 °F)
Mật độ(Bạc) 7,365 g·cm−3 (ở 0 °C, 101.325 kPa)
(Xám) 5,769 g·cm−3
Mật độ ở thể lỏngở nhiệt độ nóng chảy: 6,99 g·cm−3
Nhiệt lượng nóng chảy(Bạc) 7,03 kJ·mol−1
Nhiệt bay hơi(Bạc) 296,1 kJ·mol−1
Nhiệt dung(Bạc) 27,112 J·mol−1·K−1
Áp suất hơi
P (Pa) 1 10 100 1 k 10 k 100 k
ở T (K) 1497 1657 1855 2107 2438 2893
Tính chất nguyên tử
Trạng thái oxy hóa4, 2, -4Lưỡng tính
Độ âm điện1,96 (Thang Pauling)
Năng lượng ion hóaThứ nhất: 708,6 kJ·mol−1
Thứ hai: 1411,8 kJ·mol−1
Thứ ba: 2943,0 kJ·mol−1
Bán kính cộng hoá trịthực nghiệm: 140 pm
Bán kính liên kết cộng hóa trị139±4 pm
Bán kính van der Waals217 pm
Thông tin khác
Cấu trúc tinh thể ​Bốn phương (Bạc), Lập phương dạng kim cương (Xám)
Độ giãn nở nhiệt22,0 µm·m−1·K−1 (ở 25 °C)
Độ dẫn nhiệt66,8 W·m−1·K−1
Điện trở suấtở 0 °C: 115 n Ω·m
Tính chất từNghịch từ (Xám)[1], Thuận từ (Bạc)
Mô đun Young50 GPa
Mô đun cắt18 GPa
Mô đun khối58 GPa
Hệ số Poisson0,36
Độ cứng theo thang Mohs1,5
Độ cứng theo thang Brinell51 MPa
Số đăng ký CAS7440-31-5
Đồng vị ổn định nhất
Bài chính: Đồng vị của Thiếc
Iso NA Chu kỳ bán rã DM DE (MeV) DP
112Sn 0.97% 112Sn ổn định với 62 neutron[2]
114Sn 0.66% 114Sn ổn định với 64 neutron[3]
115Sn 0.34% 115Sn ổn định với 65 neutron[3]
116Sn 14.54% 116Sn ổn định với 66 neutron[3]
117Sn 7.68% 117Sn ổn định với 67 neutron[3]
118Sn 24.22% 118Sn ổn định với 68 neutron[3]
119Sn 8.59% 119Sn ổn định với 69 neutron[3]
120Sn 32.58% 120Sn ổn định với 70 neutron[3]
122Sn 4.63% 122Sn ổn định với 72 neutron[4]
124Sn 5.79% 124Sn ổn định với 74 neutron[5]
126Sn Vết 2,3×105 năm β- 0.380 126Sb

Thiếc là một nguyên tố hóa học trong Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev, có ký hiệu là Sn và số nguyên tử là 50. Thiếc có màu ánh bạc, nhiệt độ nóng chảy thấp (232 °C), rất khó bị oxy hóa, ở nhiệt độ môi trường thiếc chống được sự ăn mòn và người ta cũng tìm thấy chúng có mặt ở rất nhiều hợp kim. Nhờ đặc tính chống ăn mòn, người ta cũng thường tráng hay mạ lên các kim loại dễ bị oxy hóa nhằm bảo vệ chúng như một lớp sơn phủ bề mặt, như trong các tấm sắt tây dùng để đựng đồ thực phẩm. Thiếc thông thường được khai thác và thu hồi từ quặng cassiterit, ở dạng Oxide. Thiếc là một thành phần chính tạo ra hợp kim đồng thiếc.

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]
Thiếc nóng chảy

Thiếc là một kim loại màu trắng bạc, kết tinh cao, dễ uốn, dễ dát mỏng. Khi một thanh thiếc bị bẻ cong, âm thanh nứt vỡ có thể nghe được do song tinh của các tinh thể.[6]

Thiếc-β (dạng kim loại hay thiếc trắng), ổn định ở mức nhiệt độ phòng và cao hơn, có tính dễ dát mỏng; trong khi thiếc-α (dạng phi kim hay thiếc xám), ổn định ở nhiệt độ dưới 13,2 °C, có tính giòn, và tỷ trọng 7,92g/cm3. Nó có dạng cấu trúc tinh thể kiểu kim cương, tương tự như kim cương, silic hay germani. Thiếc-α không có tính chất kim loại nào cả, chúng bền ở nhiệt độ dưới 14 °C có tỷ trọng 5,85g/cm3. Thiếc trắng là một loại bột màu xám xỉn không có ứng dụng rộng rãi, ngoại trừ một vài ứng dụng làm vật liệu bán dẫn đặc biệt.[6] Hai dạng thù hình là thiếc-α và thiếc-β thường được gọi là thiếc xámthiếc trắng. Hai dạng thù hình khác là thiếc-γ và thiếc-σ tồn tại ở nhiệt độ trên 161 °C và áp suất trên vài GPa.[7] Mặc dù nhiệt độ biến đổi dạng α-β trên danh nghĩa là ở 13,2 °C, nhưng các tạp chất (như Al, Zn, vv...) hạ thấp nhiệt độ chuyển đổi dưới 0 °C khá sâu, và khi bổ sung Sb hoặc Bi thì sự chuyển đổi có thể không xảy ra, làm tăng độ bền của thiếc.[8]

Sự chuyển đổi này gọi là phân rã thiếc. Phân rã thiếc từng là một vấn đề nghiêm trọng ở Bắc Âu trong thế kỷ XVIII khi các loại đàn đại phong cầm làm từ hợp kim thiếc đôi khi bị ảnh hưởng trong mùa đông lạnh giá. Một vài nguồn đề cập rằng trong suốt chiến dịch ở Nga của Napoleon năm 1812, nhiệt độ trở nên quá lạnh đến nỗi các nút bằng thiếc trên đồng phục của lính phân rã theo thời gian, góp phần vào sự thất bại của Grande Armée.[9]

Thiếc phẩm cấp thương mại (99,8%) có tính kháng biến dạng do ảnh hưởng ức chế của một lượng nhỏ tạp chất bismuth, antimon, chì, và bạc. Các nguyên tố tạo hợp kim như đồng, antimon, bismuth, cadmi, và bạc tăng độ cứng của nó. Thiếc có khuynh hướng dễ dàng tạo ra các pha liên kim loại giòn cứng, là dạng không mong đợi. Nhìn chung, nó không tạo thành các dải dung dịch rắn rộng trong các kim loại khác, và chỉ có một vài nguyên tố có khả năng hòa tan rắn trong thiếc. Các hệ Eutectic xảy ra với bismuth, galli, chì, tali, và kẽm.[8]

Hóa học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếc có tính chống ăn mòn từ nước nhưng có thể dễ hòa tan bởi acidbase. Thiếc có thể được đánh rất bóng và được dùng là lớp phủ bảo vệ cho các kim loại khác.[6] Trong trường hợp này, một lớp oxide bảo vệ được sử dụng để chống các tác nhân oxy hóa. Lớp oxide này được tạo ra từ oxide thiếc và các hợp kim thiếc khác.[10] Thiếc là một chất xúc tác khi oxy có trong dung dịch và giúp tăng tốc độ phản ứng.[6]

Đồng vị

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếc là nguyên tố có nhiều đồng vị bền với các khối lượng nguyên tử 112, 114 đến 120, 122 và 124. Trong đó, phổ biến nhất là 120Sn (chiếm 1/3 trong tất cả đồng vị thiếc), 118Sn, và 116Sn, còn đồng vị ít phổ biến nhất là 115Sn. Các đồng vị có số khối chẵn không có nuclear spin trong khi các đồng vị có số khối lẻ có một spin +1/2. Thiếc, với 3 đồng vị phổ biến của nó 115Sn, 117Sn và 119Sn, là các nguyên tố dễ nhận dạng nhất và phân tích bằng NMR spectroscopy, và chemical shift được tham chiếu với SnMe
4
.[note 1][11]

Việc các đồng vị bền có số khối lớn được cho là sản phẩm trực tiếp của thiếc sở hữu số nguyên tử 50, đây là một số Magic trong vật lý hạt nhân. Có 28 đồng vị phóng xạ đã được biết đến, vượt qua tất cả các nguyên tố khác có số nguyên tử giữa 99 và 137. Bên cạnh 126Sn, có chu kỳ bán rã 230.000 năm, tất cả các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn một năm. Đồng vị phóng xạ 100Sn là một trong số ít các hạt nhân sở hữu hạt nhân doubly magic và được phát hiện tương đối gần đây vào năm 1994.[12] 30 trạng thái đồng phân kích thích khác đã được miêu tả cho các đồng vị từ 111 đến 131, đồng vị phóng xạ ổn định nhất là 121mSn, có chu kỳ bán rã 43,9 năm.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Dao găm khổng lồ làm bằng đồng dùng trong nghi lễ Plougrescant-Ommerschans, vùng Plougrescant, Pháp, 1500–1300 trước Công nguyên.

Thiếc được chiết tách và sử dụng vào đầu thời đại Đồ đồng vào khoảng 3000 TCN, khi quan sát rằng các loại đồng được hình thành trong các quặng đa kim chứa nhiều kim loại khác nhau về các tính chất vật lý.[13] Các vật dụng bằng đồng sớm nhất có hàm lượng thiếc hoặc asen nhỏ hơn 2% và do đó được cho là kết quả không chủ ý của việc tạo thành hợp kim do các kim loại này tồn tại ở dạng vết trong quặng đồng.[14] Việc thêm vào kim loại thứ hai trong đồng làm tăng độ cứng của nó, giảm nhiệt độ nóng chảy, và cải thiện quá trình đúc bằng cách tạo ra những chất lỏng nóng chảy hơn khi lạnh tạo thành kim loại ít rỗng, đặc hơn.[14] Đây là một sáng chế quan trọng cho phép tạo ra các hình đúc phức tạp trong giới hạn công nghệ của thời đại đồ đồng. Các vật dụng Arsenical bronze xuất hiện đầu tiên ở vùng Cận Đông nơi asen được tìm thấy phổ biến cộng sinh với quặng đồng, như rủi ro đến sức khỏe của kim loại này được nhận ra nhanh chóng và người ta tìm nguồn quặng thiếc ít nguy hiểm hơn bắt đầu vào đầu thời đại đồ đồng.[15] Điều này làm tăng tính hiếm của kim loại thiếc và hình thành mạng lưới thương mại liên kết các nguồn tài nguyên thiếc ở xa với các thị trường của các nền văn hóa thời đại Đồ đồng.[cần dẫn nguồn]

Cassiterit (SnO2), một dạng oxide thiếc, là nguồn thiếc sơ cấp có thể phổ biến nhất vào thời cổ đại. Các dạng quặng thiếc khác ở dạng sulfide ít phổ biến hơn như stannit thì cần phải có quá trình nung chảy nhiều hơn. Cassiterit thường tích tục trong các lòng dẫn bồi tích ở dạng mỏ sa khoáng do loại quặng này nặng hơn, cứng hơn và bề hóa học hơn loại đá granit chứa nó.[16] Các mỏ này có thể được phát hiện dễ dàng trên các bờ sông vì cassiterit thường có màu đen, tím hoặc màu sẫm khác, đặc điểm này được dùng để nhận dạng trong tìm kiếm vào đầu thời đại đồ đồng. Thiếc được gọi là 'ÓN' thời Ai Cập cổ đại 3000-4000 năm trước và được dùng trong các đường ống bơm.[17]

Hợp chất

[sửa | sửa mã nguồn]

Phần lớn thiếc tạo thành các hợp chất ở trạng thái oxide hóa trị II hoặc IV.

Hợp chất vô cơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Các muối halide của thiếc đều tồn tại ở trạng thái oxy hóa. Sn(IV) gồm tất cả bốn muối halide: SnF4, SnCl4, SnBr4, và SnI4. 3 hợp chất nặng hơn là các hợp chất phân tử dễ bay hơi, trong khi tetrafluorua là polymer. Tất cả bốn muối halide trên cũng tồn tại ở trạng thái oxy hóa II) gồm: SnF2, SnCl2, SnBr2, và SnI2, tất cả chúng là các chất rắn polymer. Trong số tám hợp chất này, chỉ có các iodide là có màu.[18]

Thiếc(II) chloride là loại muối thiếc quan trọng nhất trong thương mại. Phương trình hóa học bên dưới minh họa cách hợp chất này được tạo ra khi clo phản ứng của thiếc kim loại tạo ra SnCl4, sau đó muối mới phản ứng tiếp với thiếc tạo ra SnCl2:[19]

SnCl4 + Sn → 2 SnCl2

Thiếc có thể tạo thành nhiều oxide, sulfide, và các dẫn xuất chalcogen. Thiếc dioxide SnO2 (cassiterit) tạo thành khi thiếc được nung có mặt của không khí.[18] SnO2 là chất lưỡng tính, nên nó hòa tan trong cả môi trường acid và base.[20] Ngoài ra, thiếc còn tạo acid với cấu trúc [Sn(OH)6]2−, như K2[Sn(OH)6], mặc dù acid stanic tự do H2[Sn(OH)6] thì không rõ. Các dạng sulfide của thiếc cũng tồn tại ở hai trạng thái oxy hóa +2 và +4: Thiếc(II) sulfideThiếc(IV) sulfide.

Ball-and-stick models of the structure of solid stannous chloride (SnCl2).[21]

Stannane (SnH4), thiếc ở trạng thái oxy hóa +4 là dạng không bền. Tuy nhiên, Organotin hydride cũng được biết đến như tributyltin hydride (Sn(C4H9)3H).[6] Các hợp chất này là các dạng hiếm hoi của thiếc(III).[22]

Phân bố

[sửa | sửa mã nguồn]
Mẫu cassiterit, một loại quặng thiếc chính.
Các hạt cassiterit thu thập từ mỏ sa khoáng.

Thiếc được tạo ra qua quá trình S trong các sao khối lượng thấp đến trung bình (khối lượng từ 0,6 đến 10 lần khối lượng Mặt Trời). Nó phát sinh qua phân rã beta của các đồng vị nặng của indi.[23]

Thiếc là nguyên tố phổ biến thứ 49 trong vỏ Trái Đất, với nồng độ 2 ppm so với 75 ppm của kẽm, 50 ppm của đồng, và 14 ppm của chì.[24]

Thiếc không tồn tại ở dạng nguyên tố trong tự nhiên, vì vậy phải được chiết tách từ nhiều loại quặng khác nhau. Cassiterit (SnO2) là nguồn thiếc thương mại duy nhất, mặc dù một lượng nhỏ thiếc được phát hiện trong các dạng sulfide như stannit, cylindrit, franckeit, canfieldit, và teallit. Các khoáng thiếc luôn đi cùng với đá granit, thường chiếm khoảng 1% hàm lượng thiếc oxide.[25]

Do thiếc oxide có tỷ trọng cao, khoảng 80% thiếc được khai thác ở dạng thứ sinh được tìm thấy ở hạ lưu các con suối. thiếc thường được phát hiện ở dạng hạt bị rửa trôi xuống hạ lưu suối trong quá khứ và lắng đọng trong các thung lũng hoặc dưới biển. Các phương pháp khai thác thiếc kinh tế nhất là xúc, rửa thủy lực hoặc khai thác lộ thiên. Hầu hết thiếc trên thế giới được sản xuất từ các mỏ sa khoáng, chúng có thể chứa ít nhất 0,015% thiếc.[26]

Trữ lượng thiếc thế giới (tấn, 2011)[27]
Quốc gia Trữ lượng
 Trung Quốc 1.500.000
 Malaysia 250.000
 Peru 310.000
 Indonesia 800.000
 Brazil 590.000
 Bolivia 400.000
 Nga 350.000
 Thái Lan 170.000
 Úc 180.000
Other 180.000
Tổng 4.800.000

Khoảng 253.000 tấn thiếc được khai tác trong năm 2011, chủ yếu ở Trung Quốc (110.000 t), Indonesia (51.000 t), Peru (34.600 t), Bolivia (20.700 t) và Brazil (12.000 t).[27] Ước tính sản lượng thiếc thay đổi có thể thay đổi do tác động của tính khả thi về mặt kinh tế và sự phát triển của công nghệ khai thác mỏ, nhưng với tốc độ tiêu thụ và công nghệ hiện tại, Trái Đất sẽ hết thiếc trong vòng 40 năm tới.[28] Tuy vậy, Lester Brown đề xuất rằng thiếc có thể cạn kiệt trong vòng 20 năm tới dựa trên việc ngoại suy tăng trưởng sử dụng 2% mỗi năm.[29]

Trữ lượng thu hồi kinh tế[25]
Năm Triệu tấn
1965 4.265
1970 3.930
1975 9.060
1980 9.100
1985 3.060
1990 7.100
2000 7.100[27]
2010 5.200[27]

Thứ hai là thiếc phế liệu cũng là một nguồn kim loại quan trọng. Sự thu hồi thiếc qua sản xuất thứ cấp, hoặc tái chế thiếc phế liệu, đang tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó, Hoa Kỳ đã không khai thác từ năm 1993 và cũng không nung chảy thiếc từ năm 1989, nên đây là nước sản xuất thiếc phế liệu lớn nhất, họ tái chế gần 14.000 tấn trong năm 2006[27]

Các mỏ mới được phát hiện ở miền nam Mông Cổ,[30] và trong năm 2009, các mỏ thiếc mới cũng được phát hiện ở Colombia, bởi Seminole Group Colombia CI, SAS.[31][32]

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếc được sản xuất từ việc khử quặng oxide thiếc bằng cacbon hay than cốc trong lò lửa quặt hay lò điện.[33][34][35]

Khai thác mỏ và nấu luyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2006, tổng sản lượng thiếc của 9 nhà sản xuất trên toàn thế giới đạt 321.000 tấn, sản lượng thiếc nấu luyện là 340.000 tấn. Từ mức sản lượng 186.300 tấn năm 1991, sản lượng thiếc tăng 89% lên 351.800 tấn năm 2005. Hầu hết sản lượng tăng là từ Trung Quốc và Indonesia, với đỉnh điểm cao nhất trong giai đoạn 2004–2005, khi nó tăng 23%. Trong khi vào thập niên 1970 Malaysia là nước sản xuất lớn nhất với sản lượng gần 1/3 sản lượng toàn cầu, sau đó giảm hạng dần, và hiện tại chỉ còn các nhà sản xuất nấu luyện và trung tâm thương mại. Năm 2007, Trung Quốc là nhà sản xuất thiếc lớn nhất, ở Trung Quốc các mỏ thiếc tập trung thành dải ở đông nam Vân Nam,[36] chiếm 43% sản lượng thế giới, theo sau là Indonesia, và thứ 3 là Peru theo báo cáo của USGS.[37]

Bảng bên dưới thể hiện các quốc gia có sản lượng khai thác mỏ thiếc lớn nhất và sản lượng thiếc nấu luyện lớn nhất.[note 2]

Sản lượng khai thác và nấu luyện (tấn), 2006[38]
Quốc gia Sản lượng khai thác mỏ Sản lượng nấu luyện
Indonesia 117.500 80.933
Trung Quốc 114.300 129.400
Peru 38.470 40.495
Bolivia 17.669 13.500
Thái Lan 225 27.540
Malaysia 2.398 23.000
Bỉ 0 8.000
Nga 5.000 5.500
Congo-Kinshasa ('08) 15.000 0

Sau khi phát hiện ra mỏ thiếc ở Bisie, North Kivu thuộc Cộng hòa Dân chủ Congo năm 2002, việc khai thác bất hợp pháp đã tăng thêm khoảng 15.000 tấn.[39] Điều này phần lớn thúc đẩy các cuộc xung đột gần đây ở nơi này cũng như ảnh hưởng đến thị trường thế giới.

Công nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

10 công ty lớn nhất sản xuất hầu hết thiếc trên thế giới năm 2007. Hiện không rõ rằng các công ty này có sản xuất thiếc nấu luyện từ mỏ ở Bisie, Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi đây được quản lý bởi lực lượng ly khai với sản lượng 15.000 tấn.

Hầu hết thiếc trên thế giới được buôn bán trên Sàn giao dịch Kim loại Luân Đôn (London Metal Exchange, LME), từ 8 quốc gia với 17 thương hiệu.[40]

Các công ty khai thác mỏ thiếc lớn nhất theo sản lượng (tấn)[41]
Công ty Chính thể 2006 2007 %Biến đổi
Yunnan Tin Trung Quốc 52.339 61.129 16,7
PT Timah Indonesia 44.689 58.325 30,5
Minsur Peru 40.977 35.940 −12,3
Malay Trung Quốc 52.339 61.129 16,7
Malaysia Smelting Corp Malaysia 22.850 25.471 11,5
Thaisarco Thái Lan 27.828 19.826 −28,8
Yunnan Chengfeng Trung Quốc 21.765 18.000 −17,8
Liuzhou China Tin Trung Quốc 13.499 13.193 −2,3
EM Vinto Bolivia 11.804 9.448 −20,0
Gold Bell Group China 4.696 8.000 70,9

Giá của thiếc đã từng là US$11.900 một tấn vào 24 tháng 11 năm 2008. Giá này lên đến ngưỡng cao nhất gần $31.600 một tấn vào tháng 2 năm 2011, phần lớn do ảnh hưởng của sự sụt giảm sản lượng từ Indonesia.

Giá và giao dịch

[sửa | sửa mã nguồn]
Sản lượng và giá thiếc thế giới.

Thiếc là loại khoáng sản duy nhất có các thỏa thuận phức tạp giữa các nhà sản xuất và tiêu thụ kể từ năm 1921. Các thỏa thuận trước đó có khuynh hướng đạt được phần nào chính thức và không thường xuyên; thỏa thuận quốc tế về thiếc đầu tiên năm 1956, và các thỏa thuận sau đó tồn tại cho đến năm 1985. Qua các thỏa thuận này Ủy ban Thiếc quốc tế (ITC) đã có những tác động đáng kể lên giá thiếc. ITC đã trợ giá thiếc trong nhiều giai đoạn rớt giá bằng cách mua thiếc dự trữ và đã kiềm chế giá trong giai đoạn tăng giá khi bán ra từ kho dự trữ. Đây là cách tiếp cận phi thị trường tự do, được thiết kế để đảm bảo đủ lượng cung cấp thiếc cho các nước tiêu thụ và lợi nhuận bền vững cho các nước sản xuất. Tuy nhiên, lượng dự trữ không đủ lớn, và trong vòng 29 năm giá thiếc tăng, đôi khi tăng mạnh, đặc biệt từ 1973 đến 1980 khi lạm phát tràn lan cản trở tăng trưởng của các nền kinh tế trên thế giới.[42]

Trong suốt cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, dự trữ thiếc của chính phủ Hoa Kỳ nằm trong tình trạng bán ra, một phần để tận dụng lợi thế giá thiếc cao lịch sử. Suy thoái kinh tế mạnh năm 1981–1982 được chứng minh là khá khắc nghiệt đối với công nghiệp thiếc. Tiêu thụ thiếc giảm mạnh. ITC có thể tránh sự tuột dốc thực sự qua việc tăng mua nhằm dự trữ; hành động này đòi hỏi ITC phải vay nhiều từ các ngân hàng và các công ty kinh doanh kim loại để tăng nguồn lực của họ. ITC tiếp tục vay cho đến cuối năm 1985 khi đạt đến giới hạn tín dụng của họ. Ngay lập tức, "tin khủng hoảng thiếc" theo sau đó, làm cho thiếc bị loại khỏi danh sách niêm yết trên Sàn giao dịch Kim loại Luân Đôn trong khoảng 3 năm, ITC giải thể ngay sau đó, và giá thiếc lúc này nằm trong môi trường kinh doanh tự do, giảm mạnh đến $4/cân và duy trì quanh mức này trong suốt thập niên 1990.[42] Nó tăng lại vào năm 2010-2011 do sự tiêu thụ lại sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008–2009, dự trữ và tiếp tục tăng tiêu thụ trong các nền kinh tế đang phát triển trên thế giới.[27]

Sàn giao dịch Kim loại Luân Đôn (LME) là nơi giao dịch thiếc.[27] Các thị trường hợp đồng thiếc khác là Kuala Lumpur Tin Market (KLTM) và Indonesia Tin Exchange (INATIN).[43]

Ứng dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếc được dùng để tráng lên bề mặt các vật bằng thép, vỏ hộp thực phẩm, nước giải khát, có tác dụng chống ăn mòn, tạo vẻ đẹp không độc hại. Thiếc dùng chế tạo hợp kim. Ví dụ: Hợp kim Sn-Sb-Cu (hay còn gọi là hợp kim babit) có tính chịu ma sát, dùng để chế tạo ổ trục quay. Hợp kim Sn-Pb có nhiệt độ nóng chảy thấp (180 °C) dùng để chế tạo ra sản phẩm là thiếc hàn chống ăn mòn.

Các trường hợp ngộ độc kim loại thiếc, oxide của nó và các muối của nó hiện hầu như chưa được biết rõ. Tuy nhiên, các hợp chất có thiếc-carbon nhất định hầu như là chất độc giống như chất độc cyanide.[44]

  1. ^ Only H, F, P, Tl and Xe have a higher receptivity for NMR analysis for samples containing isotopes at their natural abundance.
  2. ^ Estimates vary between USGS and The British Geological Survey. The latter was chosen because it indicates that the most recent statistics are not estimates, and estimates match more closely with other estimates found for Congo-Kinshasa.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Magnetic susceptibility of the elements and inorganic compounds, in Handbook of Chemistry and Physics 81st edition, CRC press.
  2. ^ Được cho là phân rã β+β+ thành 112Cd.
  3. ^ a b c d e f g Về mặt lý thuyết có khả năng phân hạch tự phát.
  4. ^ Được cho là ​​phân rã ββ thành 122Te.
  5. ^ Được cho là ​​phân rã ββ thành 124Te với chu kỳ bán rã hơn 1×1017 năm.
  6. ^ a b c d e Arnold F. Holleman; Wiberg, Egon; Wiberg, Nils (1985). “Tin”. Lehrbuch der Anorganischen Chemie (bằng tiếng Đức) . Walter de Gruyter. tr. 793–800. ISBN 3110075113.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ A. M. Molodets & Nabatov, S. S. (2000). “Thermodynamic Potentials, Diagram of State, and Phase Transitions of Tin on Shock Compression”. High Temperature. 38 (5): 715–721. doi:10.1007/BF02755923.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  8. ^ a b Schwartz, Mel (2002). “Tin and Alloys, Properties”. Encyclopedia of Materials, Parts and Finishes (ấn bản thứ 2). CRC Press. ISBN 1566766613.
  9. ^ Penny Le Coureur & Burreson, Jay (2004). Napoleon's Buttons: 17 Molecules that Changed History. New York: Penguin Group USA.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  10. ^ Anderson, David S; International, A.S.M. (tháng 1 năm 1995). Handbook of corrosion data. tr. 126. ISBN 978-0-87170-518-1. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp); |first1= thiếu |last1= (trợ giúp)
  11. ^ “Interactive NMR Frequency Map”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  12. ^ Walker, Phil (1994). “Doubly Magic Discovery of Tin-100”. Physics World. 7 (June).
  13. ^ Cierny, J.; Weisgerber, G. (2003). “The "Bronze Age tin mines in Central Asia”. Trong Giumlia-Mair, A.; Lo Schiavo, F. (biên tập). The Problem of Early Tin. Oxford: Archaeopress. tr. 23–31. ISBN 1-84171-564-6.
  14. ^ a b Penhallurick, R.D. (1986). Tin in Antiquity: its Mining and Trade Throughout the Ancient World with Particular Reference to Cornwall. Luân Đôn: The Institute of Metals. ISBN 0-904357-81-3.
  15. ^ Charles, J.A. (1979). “The development of the usage of tin and tin-bronze: some problems”. Trong Franklin, A.D.; Olin, J.S.; Wertime, T.A. (biên tập). The Search for Ancient Tin. Washington D.C.: A seminar organized by Theodore A. Wertime and held at the Smithsonian Institution and the National Bureau of Standards, Washington D.C. March 14–15, 1977. tr. 25–32.
  16. ^ (Penhallurick 1986)
  17. ^ Trong thời kỳ MMP (Moscow Mathematical Papyrus, lesson 14, while calculating a truncated pyramid's volume, the scribe wrote: "hatnak ÓNoz a tetőzet húr útját.." (plumb-line for 6 the string-way of the roof). With other words, the height of the figure is 6 units. Tin has always been called 'ÓN' in Hungarian. The Rhind Mathematical Papyrus (RMP) and the (MMP) as well have been written in ancient Hungarian (Scythian) language 3-4000 years ago and can only be read and understood in this language and correctly solved. Hungarians still call plumb-lining 'Ón-oz' as it is written in the Papyrus.ref.: J.Borbola: Royal circles (Hungarian reading of the Rhind Mathematical Papyrus),Budapest,2001; J.Borbola: Egyptian Ancient-Hungarian geometry, Budapest, 2013.
  18. ^ a b Bản mẫu:Holleman&Wiberg
  19. ^ Greenwood, Norman N.; Earnshaw, A. (1997), Chemistry of the Elements (ấn bản thứ 2), Oxford: Butterworth-Heinemann, ISBN 0-7506-3365-4
  20. ^ Inorganic & Theoretical chemistry, F. Sherwood Taylor, Heineman, 6th Edition (1942)
  21. ^ J. M. Leger, J. Haines, A. Atouf (1996). “The high pressure behaviour of the cotunnite and post-cotunnite phases of PbCl2 and SnCl2. J. Phys. Chem. Solids. 57 (1): 7–16. Bibcode:1996JPCS...57....7L. doi:10.1016/0022-3697(95)00060-7.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  22. ^ Gaur, D. P.; Srivastava, G.; Mehrotra, R. C. (1973). “Organic Derivatives of Tin. III. Reactions of Trialkyltin Ethoxide with Alkanolamines”. Zeitschrift für anorganische und allgemeine Chemie. 398: 72. doi:10.1002/zaac.19733980109.
  23. ^ “The physical universe: An introduction to astronomy”. 1982: 119–121. ISBN 978-0-935702-05-7. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp); |first1= thiếu |last1= (trợ giúp); Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  24. ^ Emsley 2001, tr. 124, 231, 449 and 503
  25. ^ a b “Tin: From Ore to Ingot”. International Tin Research Institute. 1991. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2009.
  26. ^ Reed, David M. Sutphin Andrew E. Sabin Bruce L; Sabin, Andrew E; Reed, Bruce L (ngày 1 tháng 6 năm 1992). Tin – International Strategic Minerals Inventory Summary Report. tr. 9. ISBN 978-0-941375-62-7. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp); |first1= thiếu |last1= (trợ giúp)
  27. ^ a b c d e f g Carlin, Jr., James F. “Tin: Statistics and Information” (PDF). United States Geological Survey. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2008.
  28. ^ Reilly, Michael (ngày 26 tháng 5 năm 2007). “How Long Will it Last?”. New Scientist. 194 (2605): 38–39. Bibcode:2007NewSc.194...38R. doi:10.1016/S0262-4079(07)61508-5. ISSN 0262-4079.
  29. ^ Brown, Lester (2006). Plan B 2.0. New York: W.W. Norton. tr. 109. ISBN 978-0-393-32831-8.
  30. ^ Kovalenko, V. I.; Yarmolyuk, V. V. (1995). “Endogenous rare metal ore formations and rare metal metallogeny of Mongolia”. Economic Geology. 90 (3): 520. doi:10.2113/gsecongeo.90.3.520.
  31. ^ “Seminole Group Colombia Discovers High Grade Tin Ore in the Amazon Jungle”. 1888 PressRelease. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2009.
  32. ^ “Seminole Enterprises Group Discovers High Grade Tin Ore In The Amazons Of Colombia”. PRLog Free Press Release. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2009.
  33. ^ Elshennawy, Ahmad K; Doyle, Lawrence E (tháng 7 năm 2000). Manufacturing processes and materials. ISBN 978-0-87263-517-3. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp); |first1= thiếu |last1= (trợ giúp)
  34. ^ Metallurgy of tin. 1911. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp); |first1= thiếu |last1= (trợ giúp)
  35. ^ Tin Under Control. ISBN 978-0-8047-2136-3. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp); |first1= thiếu |last1= (trợ giúp)
  36. ^ Shiyu, Yang (1991). “Classification and type association of tin deposits in Southeast Yunnan Tin Belt”. Chinese Journal of Geochemistry. 10 (1): 21–35. doi:10.1007/BF02843295.
  37. ^ Carlin, Jr., James F. “Mineral Commodity Summary 2008: Tin” (PDF). United States Geological Survey.
  38. ^ World Mineral Production 2002–06 (PDF). British Geological Survey. tr. 89. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2009.
  39. ^ Polgreen, Lydia (ngày 15 tháng 11 năm 2008). “The Spoils: Congo's Riches, Looted by Renegade Troops”. New York Times. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2010.
  40. ^ “International Tin Research Institute. LME Tin Brands”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.
  41. ^ “International Tin Research Institute. Top Ten Tin Producing Companies”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009.
  42. ^ a b Carlin, James F., Jr. (1998). Significant events affecting tin prices since 1958. USGS.
  43. ^ “12 Januari Pemasaran Perdana INATIN”. ngày 15 tháng 12 năm 2011.
  44. ^ G. G. Graf "Tin, Tin Alloys, and Tin Compounds" in Ullmann's Encyclopedia of Industrial Chemistry, 2005 Wiley-VCH, Weinheim doi:10.1002/14356007.a27_049

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]